Cỏ mực, cỏ nhọ nồi hay hàn liên thảo (danh pháp khoa học: Eclipta prostrata) là một loài thực vật thuộc họ Cúc (Asteraceae) Cùng Mela đi vào tìm hiểu ngay
Phân bố
Loài này mọc phổ biến ở những nơi ẩm ướt, từ khu vực ôn đới ấm đến nhiệt đới trên toàn thế giới. Theo Barkley et al. (2006) thì nó được cho là có nguồn gốc tại châu Mỹ nhưng đã du nhập rộng khắp vào miền nam châu Âu, châu Phi, miền nam châu Á và Australasia.
Mô tả
Nó có hình trụ, rễ màu xám. Cỏ mực mọc thẳng đứng có thể cao tới 80 cm, thân có lông cứng. Lá mọc đối có lông 2 mặt, dài 2 – 8 cm, rộng 5 – 15mm. Cụm hoa hình đầu màu trắng ở kẽ lá hoặc đầu cành, lá bắc thon dài 5 – 6mm, cũng có lông. Các đầu hoa đơn độc có đường kính 6–8 mm, với các bông hoa màu trắng. Quả bế 3 cạnh, hoặc dẹt, có cánh, dài 3mm, rộng 1,5mm, đầu cụt, mọc hoang khắp nơi ở nước ta. Gọi là cây cỏ mực vì khi vò nát có nước chảy ra như mực đen.
Sử dụng
Theo y học cổ truyền, cỏ mực có vị ngọt, chua, vào 2 kinh Can và Thận; có tác dụng bổ thận âm, lương huyết (mát huyết), chỉ huyết (cầm máu), thanh can nhiệt, làm đen râu tóc,…Trong dân gian thường dùng cỏ mực giã vắt lấy nước để uống cầm máu trong rong kinh, trĩ ra máu, chảy máu cam…
Loài này có công dụng truyền thống ở Ayurveda. Ở Ấn Độ, nó được gọi là bhangra hoặc bhringaraj. Sài đất được biết đến với những cái tên giống nhau, vì vậy hoa trắng E. alba được gọi là bhangra trắng và hoa vàng W. calendulacea được gọi là bhangra vàng.
Ở Đông Nam Á, toàn cây khô được dùng trong y học cổ truyền, mặc dù không có nghiên cứu lâm sàng chất lượng cao nào chỉ ra rằng những cách sử dụng trên có tác dụng.
Nó có thể được dùng để chữa chảy máu bên trong và bên ngoài, rong kinh, băng huyết, chảy máu cam, trĩ, đại tiểu tiện ra máu, nôn và ho ra máu, chảy máu dưới da; còn chữa ban sởi, ho, hen, viêm họng, bỏng, nấm da, tưa lưỡi. Ngày 12-20 g cây khô sắc hoặc 30-50 g cây tươi ép nước uống.
CHỮA SUY THẬN (DÙNG TƯƠI HẤP ĐỂ ĂN)
Dùng ngoài để cầm máu và trị những bệnh ghẻ lác. Cây cỏ mực cũng còn được sử dụng để xăm mình. Ngoài những tác dụng trên, cây cỏ mực còn được dùng để trị bệnh viêm xoang rất hiệu quả.
Chiết xuất cỏ nhọ nồi
Mô tả Eclipta Prostrata Extract (Chiết xuất cỏ nhọ nồi)
Một loại thực vật phổ biến ở Hàn Quốc, Eclipta prostrata có đặc tính chống oxy hóa và làm dịu da mạnh mẽ. Còn được gọi là cây cỏ mực hay hàn liên thảo, loại thực vật không hương liệu này là một thành viên của gia đình hướng dương.
Cách nhận diện Cỏ nhọ nồi
Cỏ nhọ nồi thuộc loại thân thảo, cao 30 – 40cm, cây mọc thẳng, đôi khi bò lan rồi vươn thẳng. Thân màu lục hoặc đỏ tía, phình lên ở những mấu, có lông cứng. Lá mọc đối hình mác, mép có khía răng rất nhỏ, có lông ở 2 mặt. Cụm hoa màu trắng mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành.
Sở dĩ cỏ nhọ nồi còn được gọi là cỏ mực, là bởi vì khi dùng tay vò nát, người ta thấy từ cây chảy ra loại nước có màu đen giống như mực.
Bộ phận dùng và hoạt chất sinh học
Có thể dùng toàn bộ phần trên mặt đất của cây. Có thể dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần đều được. Trong cỏ nhọ nồi có chứa các chất như: tinh dầu, chất đắng, tanin, caroten và ankaloid. Ngoài ra còn có hoạt chất wedelolacton, đã được chứng minh là có tác dụng chống viêm.
Bộ phận dùng, thu hái, sơ chế, bảo quản
Toàn bộ các phần mọc trên mặt đất của cây nhọ nồi đều có thể được dùng làm thuốc. Cây có thể được sử dụng ở dạng tươi hoặc dạng khô đều được. Nếu dùng khô cần thu hoạch trước khi cây ra hoa, lấy toàn bộ các bộ phận của cây mọc lộ thiên trên mặt đất rồi đem phơi khô. Khi cần dùng thì rửa lại với nước và để ráo, cắt thành từng đoạn từ 3 – 5cm và phơi khô. Tùy vào từng bài thuốc mà có thể sao cháy hoặc sao qua để tối ưu công dụng cầm máu của cây nhọ nồi.
Thành phần hóa học của cỏ mực
Trong cây cỏ mực, người ta tìm thấy nhiều thành phần hóa học có tác dụng dược lý quan trọng như Alcaloid (ecliptin, nicotin và coumartin lacton), caroten và wedelolacton – một chất curmarin lacton từ đó tách ra được một flavonozit và chất demetylwedelacton. Ngoài ra còn có chất đắng, tannin và một ít tinh dầu.
Tác dụng dược lý của Cỏ nhọ nồi
Mặc dù nhọ nồi chỉ là loài cây nhỏ bé mọc hoang, nhưng lại có rất nhiều tác dụng tốt. Chính vì vậy dã có rất nhiều nghiên cứu được thực hiện, phát hiện ra các hoạt tính sinh học bất ngờ của loại cây này.
Tác dụng cầm máu
Trong dân gian, nhọ nồi thường được sử dụng như loại thuốc bổ máu, chữa ho ra máu, chảy máu cam… Cỏ nhọ nồi có tác dụng cầm máu vì khả năng làm tăng tổng lượng prothrombin (yếu tố giúp đông máu), có cơ chế giống với vitamin K (là thành phần quan trọng giúp tổng hợp ra các yếu tố đông máu). Hoạt tính cầm máu của 1g bột nhọ nồi khô tương đương với 1,33 mg vitamin K.
Tác dụng kháng khuẩn
Thảo dược này được nghiên cứu có tác dụng ức chế các chủng vi khuẩn: liên cầu, tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn bạch hầu, Bacillus anthracis, Bacillus subtilis.
Nghiên cứu về tác dụng chiết suất cỏ nhọ nồi, được thực hiện trên nhóm chuột bị gây nhiễm trùng bằng đường tiêm. Kết quả cho thấy cỏ nhọ nồi có thể cải thiện được quá trình điều trị chuột nhiễm trùng nặng và choáng nhiễm khuẩn tại nồng độ 20mg/ml.
Tác dụng kháng viêm
Viêm là các phản ứng sinh học xảy ra trong cơ thể, có tác dụng bảo vệ khi cơ thể bị tấn công bởi các yếu tố gây hại. Viêm được coi là phản ứng tốt cho cơ thể trong những trường hợp bình thường. Tuy nhiên khi các tế bào miễn dịch hoạt động quá mức, thì tình trạng viêm lại gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hoạt chất Wedelolactone trong cỏ nhọ nồi có tác dụng ức chế quá trình sinh các yếu tố tiền viêm như cytokine TNF, IL-6, IL12p40. Từ đó làm giảm quá trình gây viêm.
Và các tác dụng khác
Nhọ nồi có tác dụng làm tăng trương lực của tử cung cô lập. Trường hợp chảy máu tử cung, nếu dùng nhọ nồi thì ngoài tác dụng làm tăng prothrombin. Còn có thể làm co thành tử cung, góp phần thúc đẩy việc chống chảy máu. Vì tác dụng ấy nên cỏ nhọ nồi khi sử dụng trên thỏ có thai có thể gây sẩy thai.
Cao lỏng lá nhọ nồi đã được áp để điều trị 70 bệnh nhân bị viêm âm đạo (23 người do tạp khuẩn, 26 do nấm và 21 do Trichomonas). Tẩm cao lỏng lá nhọ nồi vào bấc, bôi khắp diện âm đạo. Sau 6 – 8 giờ, bệnh nhân rút bấc ra. Kết quả cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân khỏi và đỡ đối với viêm âm đạo do tạp khuẩn: 86.3%, đối với nấm: 73%, đối với Trichomonas là 61.9%.
Nghiên cứu trên chuột bị gây tổn thương gan bằng paracetamol, cỏ nhọ nồi với liều 4g/kg có tác dụng bảo vệ gan biểu hiện qua hoạt độ của AST, ALT, hạn chế được một phần tổn thương trên giải phẫu vi thể gan.
Cỏ nhọ nồi trị được bệnh gì?
Theo Đông y, Nhọ nồi có vị ngọt, chua, tính mát có tác dụng bổ thận, mạnh xương, đen tóc, mát huyết, cầm máu, giải độc.
Ngoài tác dụng cầm máu, nhọ nồi còn được sử dụng để chữa các bệnh như: sởi, ho, viêm họng, lao phổi, bỏng, bệnh nấm ở da, di mộng tinh. Dân gian còn dùng nước ép lá nhọ nồi đun nóng với dầu dừa hoặc dầu vừng giúp làm mọc tóc.
Liều dùng:
- Mỗi ngày dùng 20g cây khô, dưới dạng thuốc sắc uống.
- Dùng tươi từ 30 – 50g, giã vắt lấy nước uống, còn bã đắp vết thương.
Bài thuốc chứa Cỏ nhọ nồi
Tác dụng bổ thận âm, chỉ huyết lỵ. Dùng chữa can thận âm kém, lỵ và ỉa ra máu, làm đen râu tóc.
Nhân dân vẫn dùng cây nhọ nồi giã vắt lấy nước uống để cầm máu trong rong kinh, trĩ ra máu, bị thương chảy máu. Còn dùng chữa ho hen, ho lao, viêm cổ họng, ngày dùng 6-12g dưới dạng sắc uống hay làm thành viên mà uống. những người thợ nề dùng cỏ nhọ nồi để xoa tay chữa bệnh bỏng rát do vôi. Có người dùng chữa bệnh nấm ở ngoài da, làm thuốc mọc tóc (sắc uống hoặc ngâm vào dầu dừa mà bôi), nhuộm tóc, bôi lên những chỗ chóc ở da thịt để có màu tím đen.
Thuốc cầm máu
12g nhọ nồi khô hoặc 30 – 50g tươi, sắc uống. Dùng riêng hoặc phối hợp với ngó sen, lá trắc bá, bách hợp.
Viên cỏ mực – cóc kèn: cao lỏng cỏ mực một phần, bột mịn lá cóc kèn 2 phần, tá dược vừa đủ làm viên nén 200mg. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.
Chữa sốt xuất huyết
Nhọ nồi 30g, rau má tươi (hoặc mần trầu) 30g, bông mã đề tươi (hoặc cối xay, rễ cỏ tranh) 20g. Vắt lấy nước uống hoặc sắc uống điều trị sốt xuất huyết.
Chữa các chứng đau sưng ở trẻ em và người lớn
Nhọ nồi, rau diếp cá, lá xương sông, lá huyết dụ, lá khế, lá dưa chuột, lá nhài, lá cải trời. Giã nát, thêm nước, vắt lấy nước uống, bã dùng đắp vào chỗ sưng.
Chữa thấp khớp
Nhọ nồi 16g, rễ cỏ xước 16g, hy thiêm 16g, thổ phục linh 20g, ngải cứu 12g, thương nhĩ tử 12g. Sao vàng, sắc đặc, ngày uống một thang, trong 7 – 10 ngày liền.
Nhọ nồi 100g, vòi voi 300g, củ bồ bồ 150g, rễ nhàu 100g. Các vị tán nhỏ làm hoàn to bằng hạt tiêu. Liều uống 20 viên hoàn, ngày 3 lần.
Chữa tưa lưỡi ở trẻ em
Nhọ nồi tươi 4g, hẹ 2g. Hai vị rửa sạch, giã nhỏ, vắt lấy nước cốt. Hòa mật ong, trộn đều chấm thuốc vào lưỡi, cách 2 giờ một lần.
Chữa ho do viêm họng hoặc viêm amidan cấp
Nhọ nồi tươi 50g, sắc uống mỗi ngày 1 thang, trong 3 ngày.
Chữa lỵ
Nhọ nồi tươi 100g, lá mơ lông 100g. Sắc đặc chia nhiều lần uống trong ngày.
Nhọ nồi 1 nắm, mã đề tươi 1 – 2 nắm, rau má 1 nắm. Sắc đặc chia nhiều lần uống trong ngày.
Chữa rối loạn kinh nguyệt
Nhọ nồi tươi 30g, rau má tươi 30g, sinh địa 16g, ích mẫu 16g, củ gấu 12g, quả dành dành (sao cháy) 12g, ngưu tất 12g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa rong huyết
Nhọ nồi 16g, đảng sâm, thục địa, cỏ nến, mỗi vị 12g, hương phụ, bạch truật, xuyên khung, mỗi vị 8g, chỉ xác 6g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa di mộng tinh
Nhọ nồi sấy khô tán nhỏ, uống mỗi lần 8g với nước cơm, hay sắc 30g uống.
Lưu ý
- Người bị viêm đại tràng mạn tính, đại tiện lỏng, sôi bụng không nên dùng.
- Cỏ nhọ nồi không gây giãn mạch, không hạ huyết áp, nhưng có thể gây sẩy thai. Do đó, phụ nữ có thai không được dùng.
Cỏ nhọ nồi là loài thảo dược lành tính, việc sử dụng hiệu quả vị thuốc này có thể mang lại nhiều tác dụng bất ngờ. Tuy nhiên, cũng như các loại thảo dược khác, việc sử dụng cần chú ý nhiều đến liều lượng và thời gian dùng. Quý bạn đọc có thể tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên môn trước khi sử dụng để đạt kết quả tốt nhất.
Mô tả cây
- Cỏ nhọ nồi là một loài cỏ mọc thẳng đứng có thể cao tới 80cm, thân có lông cứng, lá mọc đối có lông ở hai mặt, dài 2-8cm, rộng 5-15mm.
- Cụm hoa hình đầu màu trắng ở kẽ lá hoặc đầu cành, lá bắc thon dài 5-6mm, cũng có lông.
- Quả bế 3 cạnh, hoặc dẹt, có cánh. Dài 3mm, rộng 1,5mm, đầu cụt, mọc hoang khắp nơi ở nước ta.
Thành phần hóa học
- Theo các nhà nghiên cứu trước, trong nhọ nồi có một ít tinh dầu, tannin, chất đắng, carotene và chất ancaloit gọi là ecliptin. Có sách nói chất ancaloit là nicotin.
- Năm 1959 Govindachari T.R và đồng sự đã chiết được từ cỏ nhọ nồi một chất wedelolacton là một cumarin lacton. Sau đó tác giả cũng thấy chất này trong cây sài đất (công thức wedelolacton, xem ở cây sài đất).
- Ngoài wedelolacton, năm 1972 K.K Bharagava (Ind.J.Chem 8,72:810) còn tách được demetyl wedelolacton và một flavonozit chưa xác định.
Tính vị
Vị ngọt, chua tính lương vào hai kinh can và thận,
Tác dụng sinh lý
Năm 1961 Viện dược liệu và Bộ môn Dược lý Trường đại học Y dược Hà Nội có nghiên cứu tác dụng cầm máu và độc tính của cỏ nhọ nồi đã đi đến kết luận sau:
Về tác dụng cầm máu
- Nước sắc cỏ nhọ nồi khô, với liều 3g/kg thể trọng trên khỉ có tác dụng làm giảm thời gian Quick rõ rệt nghĩa là làm tăng tỷ lệ prothrombin toàn phần. Nhọ nồi cũng như vitamin K có tác dụng chống lại tác dụng của dicuramin.
- Nhọ nồi làm tăng trương lực của tử cung cô lập. trường hợp chảy máu tử cung, nếu dùng nhọ nồi thì ngoài tác dụng làm tăng prothrombin, còn có thể làm nén thành tử cung. Góp phần thúc đẩy việc chống chảy máu.
- Đối với thỏ có thai có thể gây sẩy thai.
- Cỏ nhọ nồi không gây tăng huyết áp.
- Cỏ nhọ nồi không làm giãn mạch.
Về độc tính của cỏ nhọ nồi
Thử trên chuột bạch với liều từ 5-80 lần liều lâm sàng không có triệu chứng độc. Theo dõi trên lâm sang, bệnh viện Ninh Giang (1961) đã cho 3 bệnh nhân (hai có thai 3-4 tháng, 1 không có thai bị ra huyết) uống 3-6 ngày mỗi ngày 20g cỏ nhọ nồi khô chế thành thuốc sắc. Sau 1-2 ngày đỡ ra huyết, sau 3-6 ngày khỏi và ra viện.
Cỏ Mực – “khắc tinh” chứng tóc bạc sớm
Y học cổ truyền cho rằng tóc là phần dư của khí huyết nên khi can thận hoạt động kém hiệu quả, khí huyết không lưu thông dẫn đến tóc xuống màu và bạc tóc. Để cải thiện chứng tóc bạc sớm, việc dưỡng thận, bổ huyết, thanh can nhiệt, loại bỏ độc tố cho gan là rất cần thiết.
Ngoài lương huyết, mát huyết, Cỏ mực còn được biết đến với cơ chế tác dụng hiệu quả vào 2 kinh can thận để dưỡng và thải độc cho gan.
Trong thí nghiệm nghiên cứu trên chuột nhắt trắng, các nhà khoa học Ấn Độ đã tiến hành tiêm chất độc vào gan chuột (CCL4), sau đó để chuột ăn chiết xuất từ lá Cỏ mực. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ tử vong của chuột nhắt trắng giảm từ 77% xuống còn 22%.
Ở Nhật Bản, Cỏ mực được xem như dược liệu chủ trị chứng tóc bạc sớm với công hiệu bổ thận âm, lương huyết.
Một số bài thuốc từ cỏ mực hỗ trợ điều trị tóc bạc sớm
Lấy 1 nắm cỏ mực, đêm rửa sạch, giã nát rồi lọc lấy nước. Đem phần nước này đun cô đặc thành cao, thêm nước gừng và mật ong vừa đủ, tiếp tục khuấy đến khi hỗn hợp cô đặc lại lần nước. Để nguội rồi cho vào lọ sạch, để nơi thoáng mát. Mỗi lần sử dụng đem 1-2 thìa canh, hòa cùng nước đun sôi còn ấm, hoặc có thể hòa cùng rượu gạo để uống mỗi ngày 2 lần. Cao này có tác dụng rất tốt trong việc bổ can thận và ích tinh huyết.
Cỏ mực 1-2 kg đem ép lấy dung dịch đặc. Nữ trinh tử 300-1000g đem ngâm rượu 1 ngày, bóc vỏ, rang khô và tán bột. Đem nước Cỏ mực trộn cùng bột nữ trinh tử, thêm vào 1 chút mật ong rồi viên lại. Ngày dùng 3 lần, mỗi lần 10gam với rượu gạo hâm nóng. Bài thuốc này có tác dụng dưỡng thận can, khỏi đau lưng gối và xanh đen râu tóc.
Đặc biệt, Cỏ mực khi kết hợp với Hà thủ ô còn đem đến hiệu quả giảm bạc tóc tăng lên nhiều lần. Đây được xem là “chìa khóa” mở ra hướng đi mới cho phương pháp giảm bạc, tốn ít chi phí.
Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Ô Mộc Khang – sản phẩm tiên phong ứng dụng Cỏ Mực vào giảm thiểu chứng tóc bạc sớm.
Hiện nay, việc sử dụng Cỏ mực để giảm bạc tóc vẫn chưa phổ biến. Bên cạnh đó, hầu hết các sản phẩm đều điều chế dưới dạng cao, hạn chế về cách thức sử dụng, liều dùng. Cộng với sản xuất thủ công khiến dược tính có trong dược liệu bị hao hụt, hiệu quả đạt được kém đi.
Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cấp thiết của xã hội, Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Ô Mộc Khang – sự kết hợp hoàn hảo từ tinh hoa y học cổ truyền với công nghệ hiện đại đã được nghiên cứu, sản xuất và đưa vào ứng dụng trong việc làm giảm chứng tóc bạc sớm.
Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Ô Mộc Khang có thành phần 100% từ thảo dược tự nhiên: Cỏ Mực, Hà thủ ô đỏ, Đậu đen xanh lòng, Mã đề, Cam thảo bắc, Cỏ sữa lá to cùng vi chất Kẽm giúp bổ huyết, lợi can thận, kích thích quá trình sản sinh Melanin – duy trì màu đen cho tóc. Đồng thời làm chậm quá trình bạc tóc, giúp tóc trẻ và đen nhánh.
Tác dụng từng thành phần:
- Hà thủ ô: thanh nhiệt, giải độc, chỉ thống, chỉ huyết, điều kinh bổ gan, ích thận, dưỡng huyết khư phong, làm đen râu tóc.
- Cỏ Mực: Bổ thận âm, chỉ huyết lị, giải độc và bổ gan thận.
- Đậu đen xanh lòng: trị phong nhiệt, làm thuốc bổ khí, hỗ trợ điều trị can thận hư yếu, suy nhược, thiếu máu, bổ sung vitamin B12,…
- Cỏ Sữa lá to: tính mát, hơi có độc, tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu, giải độc.
- Mã đề: Có tác dụng lợi tiểu, thanh phế, can, phong nhiệt, thẩm bàng quang thấp khí, hỗ trợ điều trị chứng đẻ khó, ho, trừ đờm, chỉ tả, sáng mắt, thuốc bổ.
- Kẽm: Chống rụng tóc, làm tóc mọc nhanh, chắc khoẻ.
Thực phẩm bảo vệ sức khỏe Ô Mộc Khang được điều chế dưới dạng viên nén tiện dụng, liều lượng trong mỗi viên nén đều được đong chuẩn theo một định mức, dễ dàng sử dụng và mang theo khi đi công tác xa. Sản phẩm mang lại hiệu quả sử dụng cho cả nam và nữ, là món quà sức khỏe ý nghĩa dành tặng người thân.
Khuyến cáo: Ô Mộc Khang là thực phẩm chức năng bảo vệ sức khỏe. Sản phẩm không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh.
Cây nhọ nồi có công dụng giúp hạ sốt không?
Một trong những tác dụng của cây nhọ nồi là hạ sốt cho trẻ. Khi trẻ sốt nhẹ do cảm cúm thông thường hay sốt xuất huyết thì cây nhọ nồi sẽ có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu sốt trên 39 độ thì cần cho trẻ uống thuốc hạ sốt và đưa đến cơ sở khám chữa bệnh để đảm bảo an toàn.
Để làm bài thuốc hạ sốt bằng cây nhọ nồi, hái cả thân và lá, nhặt bỏ phần hỏng, sau đó rửa sạch bằng nước 3 – 4 lần, khi rửa tránh làm dập nát cây. Sau đó cho nhọ nồi ngâm với nước muối loãng trong thời gian khoảng 3 phút. Vớt ra để ráo và giã bằng cối sao cho thật nhuyễn, pha hỗn hợp đã giã nhuyễn với nước đun sôi để nguội, lọc ra rây để loại bỏ bã. Với trẻ sốt nhẹ thì cho uống ngày 3 lần, mỗi lần 1 thìa, nếu trẻ nhỏ khó uống có thể cho thêm chút đường, trẻ ho thì có thể cho thêm vài hạt muối tinh. Phần bã vừa lọc bỏ thì chia thành các phần rồi đắp ở trán, bẹn, nách để giúp trẻ giảm nhiệt độ xuống.
Với trẻ quá nhỏ thì không nên cho uống nước nhọ nồi khi không lọc kỹ để tránh tình trạng sặc do còn sót bã trong nước.
Có thể kết hợp nhọ nồi với lá tre, rễ cỏ tranh, hạ khô thảo, trắc bá diệp với liều lượng phù hợp với từng độ tuổi để hạ sốt, thanh nhiệt giải độc cho cả trẻ nhỏ và người lớn hiệu quả.
Một số tác dụng dược lý mới phát hiện
Tác động đối với chức năng miễn dịch
Cỏ nhọ nồi có tác dụng kích hoạt hệ miễn dịch, xúc tiến sự chuyển hóa của các tế bào limphô (lymphocyte), đặc biệt là đối với tế bào limphô T (T- lymphocytes). Kết qủa thực nghiệm trên động vật cho thấy, cỏ mực có tác dụng tăng cường rõ rệt đối với chức năng miễn dịch phi đặc dị và miễn dịch tế bào. Đối với chức năng miễn dịch dịch thể, thì chưa phát hiện thấy ảnh hưởng.
Tăng bạch cầu
Thuốc chiết xuất bằng ethanol có tác dụng giảm nhẹ tình trạng giảm bạch cầu do cyclophosphamide gây nên.
Bảo vệ gan
Chiết xuất benzene, acetone, petroleum ether và ethanol từ cỏ nhọ nồi, đều có tác dụng bảo vệ gan đối với những tổn thương do CCL4 gây nên. Trong các loại chiết xuất trên, chiết xuất ethanol có tác dụng mạnh nhất
Ảnh hưởng đối với hệ tim mạch
Cỏ mực có tác dụng tăng lưu lượng máu qua động mạch vành ở tim cô lập của chuột thí nghiệm, đồng thời còn cải thiện sóng T trên điện tâm đồ. Đối với tình trạng thiếu ô-xy, trong điều kiện huyết áp bình thường hoặc huyết áp thấp, cỏ mực có tác dụng kéo dài thời gian sống hoặc nâng cao tỷ lệ sống sót.
Chống tổn thương nhiễm sắc thể, chống đột biến
Thuốc sắc cỏ nhọ nồi có tác dụng bảo vệ nhất định đối với nhiễm sắc thể và còn có khả năng chống đột biến.
Đối với hệ thần kinh trung ương
Nước sắc cỏ nhọ nồi có tác dụng trấn tĩnh và giảm đau rõ ràng.
Diệt khuẩn, chống viêm
Chiết xuất nước từ cỏ mực có tác dụng diệt tụ cầu khuẩn (staphylococcus aureus), trực khuẩn bạch hầu (bacillus diphtheria), trực khuẩn viêm ruột (bacillus enteritidis) và có tác dụng ức chế nhất định đối với amip. Nước sắc cỏ nhọ nồi có tác dụng ức chế rõ ràng đối với viêm cấp tính và viêm mạn tính.
Một số ứng dụng lâm sàng mới
- Viêm khí quản: Dùng cỏ mực tươi 200g, trần bì 5g, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang. Thử nghiệm điều trị 50 ca, kết quả rất tốt: Khỏi bệnh 44, chuyển biến tốt 4, vô hiệu 2; tổng hiệu suất 96%. Nói chung, sau 5 ngày, các triệu chứng cải thiện rõ rệt.
- Chữa bệnh mạch vành tim: Dùng cao cỏ nhọ nồi ngày 2 lần, mỗi lần 15g (tương đương 30g thuốc tươi), liệu trình 1 tháng. Thử nghiệm điều trị 30 ca đau thắt ngực do bệnh động mạch vành ở những mức độ khác nhau. Kết quả : 15 ca kiến hiệu rõ ràng, 14 có cải thiện, 1 ca vô hiệu. Quan sát lâm sàng cho thấy, cỏ nhọ nồi còn có tác dụng đối với chứng váng đầu, bệnh cột sống, tim loạn nhịp và thở hụt hơi.
- Tan máu do thuốc (Dược vật tính dung huyết): Dùng cỏ nhọ nồi khô 60-90g, sắc nước uống trong ngày; hoặc dùng cỏ nhọ nồi tươi 500g, giã lấy nước cốt, pha thêm nước sôi để nguội cho đỡ đặc, chia thành 2 phần uống, trường hợp nặng cần kết hợp truyền dịch (không truyền dịch có tính kiềm). Thử nghiệm trị liệu 11 ca, tất cả đều khỏi hẳn.
- Hỗ trợ trong điều trị chứng giảm tiểu cầu máu: Cỏ mực 10g, nhân sâm 5g (nếu không có thay bằng đảng sâm 12g), gạo tẻ 50g, đường trắng vừa đủ. Nhân sâm thái thành lát mỏng, hấp chín. Cỏ mực rửa sạch, sắc lấy nước để nấu cháo. Sau khi cháo chín, cho sâm vào, thêm chút đường cho đủ ngọt. Dùng mỗi ngày 1 lần, ăn thay bữa điểm tâm buổi sáng; liên tục trong 5 ngày.
- Gan nhiễm mỡ: Cỏ nhọ nồi 30-100g, nữ trinh tử 20g, trạch tả 15g, đương quy 15g. Sắc nước uống mỗi ngày 1 thang.
Gia giảm: Trường hợp gan nhiễm mỡ do nghiện rượu thêm cát căn 30g, chỉ củ tử (hạt khúng khéng) 15g, bồ công anh 15g. Người viêm gan vi rút, nhất là viêm gan B mạn tính thêm: Phong phòng 15g, bán biên liên 20g, hổ trượng 15g. Đái tháo đường thêm: Huyền sâm 15g, thương truật 15g. Béo phì dẫn đến gan nhiễm mỡ, thêm: Đại hoàng 6-10g, hà diệp 15g.
- Khô miệng ban đêm ở người già: Dùng cỏ mực 40g, sinh địa 12g; sắc uống. Thử nghiệm điều trị 50 ca, đều có kết quả tốt. Một bệnh nhân nữ, 62 tuổi, bị chứng khô miệng về đêm đã 6 năm; có đêm phải thức dậy tới 5-6 lần, để nhấp nước; đã uống 10 thang thuốc đông dược mà vô hiệu. Dùng phương thuốc trên sắc nước uống thay trà trong ngày, sau 7 ngày miệng đỡ khô rõ rệt, uống liên tục 14 ngày, hoàn toàn không còn thấy miệng khô. Sau khi khỏi bệnh, thỉnh thoảng lại sắc uống để củng cố; Theo dõi sau nửa năm không thấy tái phát.
- Loét miệng tái đi tái lại lâu năm: Dùng cỏ mực 40g, nữ trinh tử, đạm trúc diệp, liên kiều, mỗi thứ 30g. Thủy tẩm tần ẩm, nhất chu hậu chứng trạng tiêu thấp.
- Sỏi thận, tiểu tiện ra máu: Cỏ mực 15g, cỏ mã đề (xa tiền thảo) 15g, đường trắng vừa đủ ngọt. Cỏ mực và mã đề sắc lấy nước; khi uống rót nước thuốc ra bát, sau đó cho thêm đường vào cho đủ ngọt. Mỗi ngày 1 thang, chia ra nhiều lần uống thay trà trong ngày; liên tục trong 20 ngày.
- U xơ tuyến tiền liệt: Cỏ mực 15g, trạch tả, ích trí nhân, xa tiền tử, bổ cốt chi, cù mạch, hổ trượng căn – mỗi vị 10g. Chữa tuyến tiền liệt tăng sinh có tác dụng tốt.
- Phụ nữ ngứa âm đạo: Lấy cỏ mực tươi khoảng 100g, sắc nước để rửa ngoài âm đạo. Có thể thêm chút câu đằng vào sắc cùng càng tốt.
- Viêm da tiết bã (seborrheic dermatitis): Cỏ nhọ nồi 200g, sắc nước gội đầu ngày 1 lần. Trị liệu 36 ca, tổng hiệu suất 83,94%.
- Giời leo (Zona): Cỏ nhọ nồi tươi, dùng nước sạch rửa sạch, vò nát, vắt nước bôi, ngày bôi 3-4 lần. Thử nghiệm điều trị 10 ca, cơ bản khỏi 8, chuyển biến tốt 2 ca.
- Phòng và chữa viêm da khi làm ruộng nước: Lấy cỏ mực tươi 1 nắm – khoảng 50g, rửa sạch, vò nát rồi xát lên chân và tay cho đến khi màu da chuyển sang tím đen nhạt. Chờ một lát cho da khô, rồi có thể xuống ruộng nước làm việc. Thời trước, những người thợ nề hay lấy cỏ mực xát lên tay để chữa chứng bỏng rát do vôi vữa gây nên. Chất tanin và một số hoạt chất khác trong cỏ mực có tác dụng làm săn da và phòng viêm nhiễm ngoài da rất tốt. Tại Trung Quốc, các thầy thuốc đã chế ra một loại cao mềm từ cỏ mực, chuyên dùng để phòng viêm da khi làm việc dưới ruộng nước.
- Eczema ở trẻ nhỏ: Cỏ nhọ nồi tươi, rửa sạch, giã lấy nước, cho vào nồi hấp 15-20 phút để tiệt trùng; để nguội, bôi vào chỗ bị bệnh ngày vài ba lần. Hoặc nếu không có cỏ tươi dùng 50g khô, sắc lấy nước, cô đặc, bôi vào chỗ bị bệnh, ngày 2-3 lần. Thường sau 2-3 ngày là dịch rỉ giảm rõ ràng, đống vẩy, đỡ ngứa, khoảng 1 tuần là khỏi.