Glucose là gì? Glucose có công dụng gì đối với sức khỏe của con người và trong sản xuất mỹ phẩm? Ứng dụng của Glucose như thế nào? Hãy cùng Mela tìm hiểu qua bài viết này
Glucose là gì?
Glucose (còn được gọi là dextrose) là một loại monosacarit có công thức phân tử C6H12O6 và phổ biến nhất. Glucose chủ yếu được tạo ra bởi thực vật và hầu hết các loại tảo trong quá trình quang hợp từ nước và CO2, sử dụng năng lượng từ ánh sáng mặt trời. Ở đó, nó được sử dụng để tạo ra cellulose trong thành tế bào và tinh bột. Trong quá trình chuyển hóa năng lượng, glucose là nguồn nguyên liệu quan trọng nhất trong tất cả các sinh vật để tạo ra năng lượng trong quá trình hô hấp tế bào. Trong thực tế, nó được lưu trữ chủ yếu ở dạng cellulose và tinh bột (hỗ trợ các thành phần chính là amilose mạch đơn và amylopectin ở dạng mạch phân nhánh), còn vật liệu được lưu trữ trong glycogen. Tăng glucose xuất hiện tự nhiên là D-glucose, trong khi đó L-glucose được sản xuất tổng hợp với lượng tương đối nhỏ và có tầm quan trọng thấp hơn.
Dung dịch Glucose 5% là dung dịch đường tiêm tĩnh mạch, nằm trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và là loại thuốc quan trọng nhất cần thiết trong hệ thống y tế cơ bản. Tên glucose bắt nguồn từ tiếng Pháp từ tiếng Hy Lạp (‘glukos’), có nghĩa là “ngọt” từ rượu chưa lên men, giai đoạn đầu tiên trong quá trình sản xuất rượu vang. Hậu tố ” -ose ” là một phân loại hóa học, biểu thị nó là một loại đường.
Lịch sử
Glucose lần đầu tiên được phân lập từ nho khô vào năm 1747 bởi nhà hóa học người Đức Andreas Marggraf. Glucose được phát hiện trong nho của Johann Tobias Lowitz vào năm 1792 và được công nhận là khác với đường mía (saccarozo). Glucose là thuật ngữ được đặt ra bởi Jean Baptiste Dumas vào năm 1838, chiếm ưu thế trong các tài liệu hóa học. Friedrich August Kekulé đã đặt đề xuất thuật ngữ dextrose (từ tiếng Latinh: dexter = bên phải), bởi vì trong dung dịch D-glucose của nước, mặt phẳng của ánh sáng phân cực tuyến tính được quay sang phải, còn L-glucose chuyển ánh sáng sáng phân cực tuyến tính sang trái.
Glucose là một trong những nhu cầu thiết yếu của nhiều sinh vật, nên hiểu biết chính xác về công thức phân tử và cấu trúc hóa học của nó đã đóng góp một phần rất lớn vào sự tiến bộ chung trong hóa học hữu cơ. Sự hiểu biết này phần lớn là nhờ vào kết quả nghiên cứu của Emil Fischer, một nhà hóa học người Đức đã nhận được giải thưởng Nobel về hóa học năm 1902 cho những phát hiện của ông. Từ năm 1891 đến năm 1894, Fischer đã thiết lập cấu hình hóa học lập thể của tất cả các loại đường đã biết và dự đoán chính xác các đồng phân có thể có của chúng, áp dụng lý thuyết về các nguyên tử carbon không đối chứng. của van ‘t Hoff.
Nhờ phát hiện ra sự chuyển hóa glucose, Otto Meyerhof đã được nhận giải Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 1922. Hans von Euler-Chelpin đã được trao giải Nobel về hóa học cùng với Arthur Harden năm 1929 do” Nghiên cứu về quá trình lên men của đường và enzyme trong quá trình này”. Năm 1947, Bernardo Houssay (phát hiện ra vai trò của tuyến yên trong quá trình chuyển hóa glucose và carbohydrate) cũng như Carl và Gerty Cori (phát hiện ra sự chuyển đổi glycogen từ glucose) đã được nhận giải Nobel về sinh lý học. or y hoc. Năm 1970, Luis Leloir đã được trao giải Nobel về hóa học nhờ khám phá về các đường nucleotit và vai trò của chúng trong tổng hợp các cacbonhidrat.
Tính chất vật lý và trạng thái tự nhiên
Tính chất vật lý
Glucose là chất kết tinh không màu, vị ngọt nhưng không ngọt bằng đường mía, dễ tan trong nước, nóng chảy ở 146 °C (dạng α của vòng pyranose) và 150 °C (dạng β của vòng pyranose).
Trạng thái tự nhiên
Glucose có trong hầu hết các bộ phận của cây như hoa, lá, củ,…và nhất là trong quả chín. Đặc biệt có nhiều quả nho chín (khoảng 18,33%) nên cũng có thể gọi là đường nho. Trong mật ong có nhiều đường (khoảng 30%). Glucose cũng có trong cơ thể người và động vật. Trong máu người có một lượng glucose nhỏ với nồng độ hầu như không thay đổi trong khoảng 0,1%.
Cấu hình phân tử cấu trúc
Glucose có công thức phân tử là C6H12O6, tồn tại ở cả hai dạng: mạch
Điều chế và ứng dụng
Điều chế
Trong công nghiệp, glucose được điều chế bằng cách thủy phân tinh bột nhờ xúc tác acid chlohidric (HCl) loãng, hoặc enzim. Người ta cũng thủy phân cellulose (có trong vỏ bào, mùn cưa) nhờ xúc tác acid chlohidric đặc thành glucose để làm nguyên liệu sản xuất ethanol.
Ứng dụng và chức năng của glucose trong cơ thể
Glucose là chất dinh dưỡng có giá trị của con người, nhất là đối với trẻ em, người già. Trong y học, glucose được dùng làm thuốc tăng lực. Trong công nghiệp, glucose được dùng để tráng gương, tráng ruột phích và là sản phẩm trung gian trong sản xuất ethanol từ các nguyên liệu có chứa tinh bột và cellulose.
Glucose giúp các hỗn hợp có pha đường không bị hiện lên những hạt đường nhỏ khi để lâu (hiện tượng hồi đường hay lại đường). Đồng thời nó cũng giúp bánh kẹo lâu bị khô và giữ được độ mềm. Nó cũng được sử dụng trong quá trình làm kem để giữ hỗn hợp nước và đường mịn, không bị hồi đường. Nó còn giúp chúng ta sản xuất Vitamin C và pha huyết thanh. Nói chung, trong công nghiệp thực phẩm, glucose được sử dụng làm chất bảo quản
Glucose là nguồn năng lượng chủ yếu và trực tiếp của cơ thể, được dự trữ ở gan dưới dạng glycogen.
Thành phần tham gia vào cấu trúc của tế bào (RNA và DNA) và một số chất đặc biệt khác (Mucopolysaccharid, héparin, acid hyaluronic,chondroitin …).
Glucose được sử dụng để tạo năng lượng cần thiết cho sự sống, quá trình này diễn ra trong tế bào. Việc sử dụng glucose của tế bào phụ thuộc vào hoạt động của màng tế bào dưới tác dụng của Insuline (ngoại trừ các tế bào não, tổ chức thần kinh, tế bào máu, tủy thận và thủy tinh thể).
Đặc điểm của Glucose đối với cơ thể sinh vật
Glucose là một loại đường ngọt có công thức phân tử C6H12O6, là loại monosacarit phong phú nhất chủ yếu được sản xuất bởi hầu hết các loại thực vật và tảo trong quá trình quang hợp từ nước và carbon dioxide sử dụng năng lượng từ ánh sáng mặt trời được sử dụng để tạo ra cellulose trong thành tế bào.
Glucose, là loại carbohydrate dồi dào nhất. trong chuyển hóa năng lượng Nó là nguồn năng lượng quan trọng nhất của mọi sinh vật, lưu thông trong máu của động vật dưới dạng đường huyết.Dạng Glucose có trong tự nhiên là d-Glucose.
Glucose là loại đường chính trong máu và là nguồn năng lượng quan trọng cho các tế bào của cơ thể. Glucose đến từ thực phẩm chúng ta ăn hoặc cơ thể có thể tạo ra từ các chất khác. và sẽ được chuyển đến các tế bào thông qua dòng máu Một số hormone, bao gồm cả insulin, điều chỉnh lượng đường trong máu.
Glucose là nguồn năng lượng của các sinh vật sống
So với nguồn nhiên liệu của ô tô là xăng. Trong các sinh vật sống, glucose là nhiên liệu trong sinh học.Glucose được sử dụng làm nguồn năng lượng trong các sinh vật từ vi khuẩn đến con người thông qua hô hấp hiếu khí và hô hấp kỵ khí. (ở vi khuẩn)
Glucose và oxy cung cấp gần như toàn bộ năng lượng cho bộ não con người. Do đó, lượng Glucose đưa vào ảnh hưởng đến quá trình nhận thức.Khi Glucose thấp, các quá trình suy nghĩ đòi hỏi nỗ lực tinh thần như tự kiểm soát. Việc ra quyết định dễ dàng được giảm bớt. Trong não, nơi phụ thuộc vào Glucose và Oxy là nguồn năng lượng chính, thiếu năng lượng sẽ gây ra kiệt sức. Dễ chóng mặt, suy nhược, hoa mắt, đánh trống ngực, ngất xỉu, vã mồ hôi, suy nhược và đau đầu.Vì vậy, cơ thể nên duy trì mức đường huyết bình thường (5 mmol/L = 90 mg/dL) nhưng giảm xuống 2 đến 3 mmol/L. khi nhịn ăn
Nguồn thức ăn tự nhiên chứa đường (Glucose)
Hầu hết các carbohydrate trong chế độ ăn uống đều chứa glucose như một thành phần duy nhất. (ví dụ như trong tinh bột polysacarit và glycogen) hoặc kết hợp với các monosacarit khác Hầu như tất cả các loại trái cây và rau quả tự nhiên đều chứa sucrose, trong đó sucrose là glucose + lượng fructose khác nhau. chuối chẳng hạn Đậu ngọt và đào là đường chính trong sucrose, trong khi glucose và fructose là đường chính trong lê và cà chua. Trong khi sucrose được tìm thấy trong hầu hết các loại thực vật.
Những thực phẩm chứa Glucose
- Carbohydrate: Bao gồm bánh mì, gạo, mì ống, khoai tây, rau, trái cây, đường, sữa chua và sữa. Cơ thể chúng ta chuyển đổi 100% lượng carbohydrate chúng ta ăn thành glucose, điều này nhanh chóng ảnh hưởng đến lượng đường trong máu của chúng ta trong vòng một hoặc hai giờ sau khi ăn.
- Protein: Chứa cá, thịt, phô mai và bơ đậu phộng. Mặc dù cơ thể chúng ta chuyển đổi một số protein chúng ta ăn thành glucose, nhưng phần lớn chất này được lưu trữ trong gan và không được giải phóng vào máu. Ăn protein thường có rất ít ảnh hưởng đến lượng đường trong máu.
- Chất béo: Bao gồm bơ, dầu trộn salad, quả bơ, dầu ô liu, chúng tôi chuyển đổi ít hơn 10 phần trăm chất béo chúng ta ăn thành glucose từ chất béo được hấp thụ chậm. Và sẽ không làm cho lượng đường trong máu tăng lên ngay lập tức.
Đo hàm lượng glucose trong thực phẩm
Có một số cách để đo lượng glucose, chẳng hạn như sử dụng khúc xạ kế. Khúc xạ kế kỹ thuật số cho các sản phẩm thực phẩm để báo cáo Glucose trong dung dịch. Nó hiển thị % Glucose theo trọng lượng (% w/w) với độ chính xác ± 0,2%. Hoạt động của máy đo được đơn giản hóa chỉ với hai nút. Một nút là để hiệu chuẩn bằng nước cất hoặc nước cất nước khử ion và một thứ khác để đo lường. Tất cả các giá trị đọc được tự động bù cho các thay đổi nhiệt độ theo Sách Phương pháp ICUMSA.
Vai trò của glucose với cơ thể con người
Glucose đóng vai trò rất quan trọng đối với cơ thể. Hầu hết các tế bào (thần kinh, máu,…) đều dựa vào glucose để hoạt động. Não là cơ quan cần nhiều glucose nhất. Các tế bào thần kinh liên tục sử dụng glucose cho các hoạt động suy nghĩ, học tập, ghi nhớ, làm việc… Nếu không nhận đủ glucose, các tế bào thần kinh không thể kết nối với các tế bào khác trong cơ thể để thực hiện hoạt động của mình.
Sự gián đoạn nồng độ glucose trong máu có thể dẫn đến nhiều chứng rối loạn não. Các nghiên cứu trên người và động vật cho thấy sự thay đổi chuyển hóa glucose trong tế bào não liên quan đến sự tiến triển của bệnh.
Ngoài ra, khi bỏ lỡ bữa ăn, bạn dễ cáu gắt, khó tập trung hay ghi nhớ. Người có lượng glucose không ổn định trong thời gian dài (như người bị đái tháo đường) có thể phát triển các vấn đề nghiêm trọng như khó khăn về nhận thức hoặc mất trí nhớ. Hàm lượng glucose trong máu nên duy trì ở mức độ vừa đủ, ổn định. Việc thiếu hụt hoặc dư thừa đều gây ra những ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe.
Glucose hoạt động như thế nào?
Sau khi ăn sau các thực phẩm chứa carbohydrate, các enzym và axit trong dạ dày sẽ phá vỡ carbohydrate, giải phóng glucose. Ruột sẽ hấp thụ glucose, giải phóng qua máu và đến các tế bào. Glucose dư thừa được lưu trữ dưới dạng glycogen ở gan. Giữa các bữa ăn hoặc khi đang ngủ, gan chuyển đổi glycogen thành glucose thông qua một quá trình gọi là glycogenesis, giúp cơ thể duy trì lượng đường trong máu lưu thông đều đặn để cung cấp năng lượng cho các tế bào.
Quá trình vận chuyển glucose vào máu luôn luôn cần có sự hiện diện của insulin (do tuyến tụy tiết ra). Do đó, nếu tuyến tụy không sản xuất đủ insulin hoặc cơ thể sử dụng insulin không hiệu quả, việc đưa glucose vào tế bào sẽ bị gián đoạn. Lúc này bạn liên tục đói, khát nước, ăn uống liên tục nhưng cơ thể không có năng lượng cho các hoạt động sống.
Kiểm tra nồng độ glucose như thế nào?
Kiểm tra nồng độ glucose rất quan trọng với người bệnh đái tháo đường. Nhân viên y tế sẽ dùng một cây kim nhỏ chích vào ngón tay, sau đó nhỏ giọt máu vào que thử. Sau đó, đưa que thử vào máy theo hướng dẫn và đọc kết quả sau 20 giây. Người bị đái tháo đường nên kiểm tra đường huyết tại nhà mỗi ngày theo hướng dẫn của bác sĩ để điều chỉnh khẩu phần ăn uống hợp lý.
Mức glucose bình thường là bao nhiêu?
Giữ mức glucose bình thường là một trong những yếu tố giúp các cơ quan trong cơ thể hoạt động đồng bộ, hiệu quả. Dưới đây là các chỉ số glucose ở mức bình thường:
- Trước khi ăn: cơ thể nhịn đói ít nhất 8 tiếng, mức glucose bình thường trước khi ăn là từ 90 – 130mg/dl, thường được kiểm tra vào buổi sáng sớm. Với những người bị tiểu đường thai kỳ, mức đường huyết phải dưới 95mg/dl. Với thai phụ bị đái tháo đường tuýp 1 và tuýp 2 thì mức glucose là 70 mg/dl đến 95 mg/dl.
- Giữa bữa ăn: mức đường huyết là 70 mg/dl đến 100 mg/dl.
- Sau khi ăn: thường 1 – 2 giờ sau ăn, với người bình thường phải dưới 180 mg/dl. Với phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ vào 1 giờ sau bữa ăn, chỉ số đường huyết dưới 140mg/dl và sau 2 giờ ăn dưới 120mg/dl. Với phụ nữ mang thai đã bị tiểu đường tuýp 1 hoặc tuýp 2 trước đó nên có mức glucose từ 110mg/dl đến 140mg/dl vào một giờ sau bữa ăn và 100mg/dl đến 120 mg/dl hai giờ sau bữa ăn.
- Trước khi tập thể dục hoặc hoạt động thể chất: đường huyết trong máu tốt nhất là ttừ 126mg/dl đến 180mg/dl.
- Sau khi tập thể dục (thể chất): chỉ số đường huyết nên trên 100mg/dl. Nếu chỉ số này dưới 100mg/dl, bạn nên ăn 15 gam carbohydrat (tương đương 1/3 chén cơm trắng; một lát bánh mì; 1/2 cái bánh hamburger; 1/2 lạng bánh phở; 1/2 lạng bún; 1/2 chén bắp hoặc đậu xanh, đậu đen; 1/2 lạng khoai lang…) để bổ sung glucose. Sau 15 phút, nếu đường huyết vẫn dưới 100mg/dl, bạn tiếp tục bổ sung 15 gam carbohydrat. Lặp lại điều này đến khi glucose đạt mức tối thiểu 100mg/dl để đảm bảo năng lượng cho các hoạt động của cơ thể.
Định lượng glucose trong máu còn được gọi là chỉ số đường huyết hay nồng độ glucose trong máu. Chỉ số này cho biết định lượng glucose hiện có trong máu. Định lượng glucose trong máu của mỗi người là khác nhau, có thể biến đổi theo từng phút, từng giờ. Dựa vào nồng độ glucose trong máu có thể chẩn đoán xác định bệnh lý đái tháo đường.
Định lượng glucose trong máu ở mức bình thường vào buổi sáng (khi chưa ăn uống gì – trung bình sau nhịn ăn ít nhất 8 tiếng) là khoảng từ 73.8 mg/dl – 106.2 mg/dl (tương đương 4.1 mmol/l – 5,9 mmol/l). Sau khi ăn khoảng 1 – 2 tiếng, nồng độ glucose trong máu sẽ tăng lên, nhưng vẫn ở dưới ngưỡng 126 mg/dl (7.0 mmol/L). Nếu định lượng glucose trong máu ở cao hơn mức kể trên thì người bệnh có khả năng mắc rối loạn dung nạp glucose. Nếu đường máu tại thời điểm bất kỳ lớn hơn 200 mg/dl (11.1 mmol/l), có thể chẩn đoán đã mắc bệnh đái tháo đường.
Mức glucose tăng cao
Mức đường huyết cao hơn 130 mg/dl trong khi đói hoặc cao hơn 180 mg/dl hai giờ sau khi ăn cho thấy đường huyết tăng, bạn có thể bị tiền đái tháo đường. Ngoài ra, mức đường huyết cao hơn 200 mg/dl bất cứ lúc nào được coi là tăng đường huyết.
Trường hợp mức đường huyết khi đói luôn cao hơn 130 mg/dl trong 2 lần xét nghiệm liên tiếp cho thấy bạn bị đái tháo đường. ới tiểu đường tuýp 1, hệ miễn dịch tấn công và phá hủy các tế bào tuyến tụy tạo ra insulin. Với tiểu đường tuýp 2, cơ thể không tạo đủ insulin cần thiết hoặc sử dụng nó không đúng cách khiến glucose vẫn còn trong máu. Bạn nên đi khám bác sĩ chuyên khoa Nội tiết – Đái tháo đường để được chẩn đoán chính xác bệnh, điều trị bằng thuốc và chế độ ăn uống lành mạnh, hợp lý.
Lượng đường trong máu quá cao có thể khiến cơ thể đi tiểu nhiều hơn do thận cố gắng chuyển lượng đường dư thừa trong máu qua nước tiểu, làm tăng cơn khát, dẫn đến nguy cơ mất nước. Đường huyết tăng cao còn gây ra các biến chứng mờ mắt, nhiễm trùng da, nhiễm trùng nấm âm đạo, bệnh tim, đột quỵ. Ngoài ra, người có đường huyết tăng cao quá mức có nguy cơ cao mắc biến chứng nhiễm toan ceton, tăng áp lực thẩm thấu máu… đe dọa tính mạng.
Mức glucose giảm thấp
Khi mức đường huyết giảm xuống dưới 70mg/dl gọi là hạ đường huyết. Nếu chỉ số này dưới 54 mg/dl cho thấy lượng đường trong máu thấp đến mức nghiêm trọng. Tình trạng này xảy ra khi người bị tiểu đường ngưng điều trị với thuốc. Ngoài ra, khi ăn quá ít trong thời gian dài, tập thể dục quá sức cũng có thể dẫn đến hạ đường huyết. Một số người cũng có thể bị hạ đường huyết khi đang ngủ, uống quá nhiều rượu, dùng insulin quá liều.
Nếu tăng đường huyết là nguyên nhân của các biến chứng nguy hiểm thì hạ đường huyết cũng gây ra nhiều rủi ro, bao gồm: tim đập nhanh, đổ mồ hôi và run rẩy, lo lắng, chóng mặt, yếu toàn cơ thể, đi lại khó khăn, mờ mắt, gây co giật, mất ý thức.…
Điều gì xảy ra khi mức glucose không được kiểm soát?
Khi glucose (đường huyết) không được kiểm soát liên tục trong thời gian dài, người bệnh có thể gặp các biến chứng về thần kinh, bệnh tim, mù lòa, nhiễm trùng da, các vấn đề về khớp, hoại tử chi, hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu máu, nhiễm toan ceton… Do đó, người bị đái tháo đường nên kiểm tra đường huyết mỗi ngày, khám với bác sĩ Nội tiết – Đái tháo đường định kỳ để theo dõi sức khỏe. Đồng thời, ngay khi đường huyết cao hoặc thấp bất thường, người bệnh nên điều chỉnh chế độ ăn uống và khám với bác sĩ để sớm tìm ra nguyên nhân, có phương pháp điều trị kịp thời.
Tiêm insuline cho người bệnh đái tháo đường.
Nên làm gì khi mức glucose quá cao hoặc quá thấp?
Mức đường huyết ổn định là một trong những yếu tố quan trọng giúp cơ thể hoạt động tốt. Do đó, ngay khi phát hiện đường huyết quá cao hoặc quá thấp, bạn nên đi khám sức khỏe với bác sĩ chuyên khoa Nội tiết – Đái tháo đường để được chẩn đoán chính xác, điều trị bằng thuốc và điều chỉnh chế độ ăn khoa học, hợp lý. Ngoài ra, người bệnh cần theo dõi chặt lượng glucose, luyện tập thể dục, tăng cường các hoạt động thể chất phù hợp với tình trạng sức khỏe.
Điều gì ảnh hưởng đến lượng đường trong máu của bạn?
Đường huyết cao hay thấp đều ảnh hưởng lớn đền sức khỏe. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lượng đường trong máu, tùy vào đái tháo đường tuýp 1 hay tuýp 2. Đái tháo đường tuýp 1 do bẩm sinh tuyến tụy không sản xuất hoặc sản xuất không đủ lượng insulin cần thiết cho quá trình vận chuyển glucose vào tế bào.
Lúc này tế bào không có năng lượng, còn máu lại chứa quá nhiều glucose, gây ra tình trạng tăng đường huyết. Các nguyên nhân khiến tuyến tụy không sản xuất hoặc sản xuất không đủ lượng insulin bao gồm: phẫu thuật loại bỏ tuyến tụy, chứng viêm (sưng, kích thích) tuyến tụy nặng…
Đường huyết cao hay thấp đều ảnh hưởng lớn đền sức khỏe.
Với đái tháo đường tuýp 2, các yếu tố ảnh hưởng đến lượng đường huyết gồm: thừa cân béo phì, tuổi tác, tiền sử gia đình, đái tháo đường thai kỳ, rối loạn lipid máu, đa nang buồng trứng… Cụ thể:
- Người thừa cân, béo phì: có nguy cơ bị đái tháo đường tuýp 2 cao hơn khoảng 6 lần so với người bình thường do gan sẽ chứa nhiều chất béo nên không thể chứa thêm glucose ở dạng glycogen. Điều này khiến tuyến tụy phải hoạt động liên tục để giải phóng glucose trong máu. Đến một giai đoạn, tuyến tụy sẽ kiệt sức, không sản xuất đủ insulin, khiến đường trong máu quá cao, gây ra các biến chứng nguy hiểm.
- Người trung niên và lớn tuổi: sự lão hóa tổng thể khiến tuyến tụy sản xuất ít insulin hơn nhu cầu của cơ thể hoặc kháng insulin – sử dụng insulin kém hiệu quả, khiến đường huyết tăng cao. Người lớn tuổi cũng dùng các loại thuốc corticosteroid (điều trị các bệnh viêm khớp dạng thấp, lupus, dị ứng…), thuốc chẹn beta (điều trị cao huyết áp), nhóm thuốc thiazid (lợi tiểu)… ảnh hưởng lớn đến đường huyết.
- Tiền sử gia đình bị đái tháo đường: nếu cả cha và mẹ đều bị đái tháo đường tuýp 2, tỷ lệ con cái mắc bệnh cao hơn 50%. Trường hợp cha hoặc mẹ bị đái tháo đường tuýp 2 và dưới 50 tuổi thì tỷ lệ di truyền là 14% và sau 50 tuổi là 7,7%.
- Đái tháo đường thai kỳ: là tình trạng rối loạn dung nạp glucose, khởi phát trong lúc mang thai. Tình trạng này sẽ tự hết sau khi sinh con. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy phụ nữ có tiền sử đái tháo đường thai kỳ có nguy cơ cao bị đái tháo đường tuýp 2. Do đó, sau khi sinh từ 4 đến 12 tuần, phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ nên đi khám với bác sĩ Nội tiết – Đái tháo đường để được kiểm tra sức khỏe.
- Rối loạn lipid máu: tình trạng tăng bất thường cholesterol xấu và triglycerid (một loại chất béo trong máu) là một trong những yếu tố thúc đẩy viêm tụy cấp và mãn tính, dẫn đến bệnh đái tháo đường. Đây cũng là nguyên nhân gây ra các vấn đề nghiêm trọng như: bệnh lý mạch vành, nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp.
- Đa nang buồng trứng: có đến 70% phụ nữ mắc bệnh đa nang buồng trứng bị kháng insulin. Điều này khiến glucose không được đưa vào tế bào, dẫn đến đái tháo đường. Một nghiên cứu ở Úc trên 8.000 người phụ nữ, ghi nhận những phụ nữ bị đa nang buồng trứng có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2 cao hơn đến 8,8 lần so với bình thường.
- Chế độ ăn uống: chế độ ăn nhiều carbohydrat, thức ăn nhanh, uống nước ngọt cũng là một trong những nguyên nhân gây bệnh đái tháo đường tuýp 2.
Để nâng cao sức khỏe, phòng tránh bệnh tiểu đường cũng như các bệnh lý khác, mọi người nên thực hiện lối sống lành mạnh: thường xuyên vận động, tập thể dục, ăn nhiều rau xanh, hạn chế ăn uống thực phẩm chế biến sẵn, các loại đường đơn (bánh, kẹo, nước ngọt…). Người từ 30 tuổi nên đi khám sức khỏe định kỳ để sớm phát hiện bệnh, điều trị kịp thời.
Glucose trong mỹ phẩm là gì?
Glucose trong mỹ phẩm thường được biết tới với tên gọi là Glucose D. Đây là một loại nguyên liệu tự nhiên mà bạn có thể tìm thấy từ ngô (bắp). Nó được coi là nguyên liệu rất an toàn, bởi không gây ra các phản ứng nhạy cảm trên da.
Các nhà sản xuất cũng ưa chuộng chất này, thường đưa vào bảng thành phần mỹ phẩm. Bởi chúng dễ dàng đưa vào sản phẩm kể cả quy trình lạnh mà không phải thực hiện công đoạn gia nhiệt cũng như điều chỉnh độ pH.
Bạn có thể thấy sự xuất hiện của Glucose trong các công thức mỹ phẩm như: sữa rửa mặt cho làn da nhạy cảm, các loại sữa tắm chăm sóc cơ thể cho trẻ em, cũng như dầu gội đầu.
Tác dụng của Glucose trong làm đẹp
Việc cho thêm Glucose D vào mỹ phẩm chăm sóc tóc và da rất phổ biến. Glucose D mang đến công dụng làm đặc và tạo kết cấu gel không ion. Do đó, các sản phẩm tẩy rửa như: sữa rửa mặt, dầu gội đầu, sữa tắm dạng gel trong suốt thường có chứa hoạt chất này.
Vì đặc tính của nó không cần trung hòa bằng kiềm nên thường là sản phẩm làm sạch dịu nhẹ, lành tính, giúp giảm các biểu hiện kích ứng trên bề mặt da.
Glucose D có độ hoạt động nằm trong khoảng 70 đến 80%. Bên cạnh đó, phần còn lại là nước. Khi ở nhiệt độ lạnh, Glucose có thể đông cứng, dày. Nếu muốn sử dụng có thể ngâm sản phẩm vào bồn nước ấm nhiệt độ 50- 60oC trong vòng 10 phút để sản phẩm mềm và tan ra, dễ lấy hơn.
Điểm lại một số tác dụng của Glucose D trong làm đẹp có thể kể đến như sau:
- Chất tạo gel cho mỹ phẩm chăm sóc da và tóc.
- Giúp kết cấu mỹ phẩm có dạng trong suốt.
- Giúp tăng độ đặc cho mỹ phẩm.
Những sản phẩm có chứa Glucose nên được bảo quản ở những nơi có nhiệt độ phòng, không tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời.
Bài viết trên, Mela đã chia sẻ đến các bạn những thông tin hữu ích về Glucose. Những công dụng của Glucose đối với sức khỏe con người cũng như đối với ngành sản xuất mỹ phẩm. Hy vọng bài viết trên đã phần nào giúp bạn hiểu thêm để chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình.